Hữu Loan: Nhà thơ bất khuất


Mặc Lâm

Chương trình VHNT tuần này Mặc Lâm xin gửi đến quý vị bài viết về cố thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim bất hủ vừa từ trần vài hôm trước tại quê nhà của ông.

Hôm nay chúng tôi xin được trình bày một ít chi tiết về cuộc đời nhà thơ Hữu Loan, từ khi ông bước vào lãnh vực thi ca để rồi sau đó không lâu chạm trán với những nghiệt ngã mà ông phải chịu đựng suốt hơn 50 năm trong chế độ mà ông từng hết lòng thiết tha phục vụ.

Không hề cúi đầu

Hữu Loan sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học tư kiếm sống. Tham gia cách mạng từ năm 1936, hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa.


Nhà thơ Hữu Loan thời trai trẻ

Hữu Loan: Nhà thơ bất khuất                                        Nghe thêm các bài về Hữu Loan

Năm 1943, Hữu Loan về Nga Sơn gây dựng phong trào Việt Minh ở quê ông. Giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau đó làm Ủy viên văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính trong kháng chiến chống Pháp.

Trong khoảng thời gian 1956-1957, Hữu Loan tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệtđến những tiêu cực của các cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức.


Căn nhà của nhà thơ Hữu Loan

Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương suốt nhiều chục năm không được góp tiếng nói hay tác phẩm với đời. Ông kiên cường chịuđựng nghèo khó mà không hề cúi đầu trước thế lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nhìn ông với đôi mắt thù hằn lẫn ngờ vực.

Tác phẩm của Hữu Loan không nhiều trong đó gồm Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ Hữu Loan.

Người không biết ông thì “Màu Tím Hoa Sim” là cầu nối dẫn họ tới nhà thơ. Với người biết ông thì bài thơ này chưa phải là đáng nói so với nhân cách của ông, một nhân cách trung thực đến cứng cỏi đáng làm tấm gương soi cho trí thức trong nhiều giai đoạn.

Hữu Loan sống và đồng hành với Cách mạng từ lúc thành công cho tới khi cũng chính Cách mạng tiêu diệt niềm tin, tính tự trọng và đau đớn hơn hết là đã làm nhiều người trở thành vô cảm trước các nỗi đau của xã hội.

Người đi bộ ngược chiều

Tuy chỉ là một nhà thơ nhưng Hữu Loan đứng bật dậy không khoan nhượng với chế độ.Nói theo cách nói của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì Hữu Loan là người đi bộ ngược chiều. Chiều của dòng chảy thuần tính xã hội chủ nghĩa, chiều của a dua hay im lặng. Chiều của muôn vàn cái ác cái xấu nay đã trở thành bình thường và được nhiều người dửng dưng chấp nhận.

Hữu Loan không chấp nhận. Hơn thế ông còn lớn tiếng phê phán, thậm chí mạt sát và sau đó chấp nhận về nhà còng lưng gánh đá nuôi con. Ông chấp nhận oằn lưng dướiđá nhưng không chấp nhận cúi đầu trước những con người mà ông cho là điếm nhục, khi ngày ngày đếm đồng tiền vấy bẩn bằng mồ hôi, nước mắt của nhân dân do vị thếmà họ nắm giữ.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc ngậm ngùi kể lại lần ông gặp Hữu Loan đầu tiên tại Lâm Đồng. Lần gặp đó cũng là lần đầu nhà thơ của chúng ta rời khỏi Nga Sơn Thanh Hóa sau nhiều chục năm câm nín.

“Lầnđầu tiên tôi gặp anh Hữu Loan trong một giờ phút rất đặc biệt. Đó là lúc khai mạcđại hội Hội Văn Nghệ Lâm Đồng.Khi tôi đang ngồi trên chủ tịch đoàn thì anh em bên ngoài đưa vào một ông già tóc bạc trắng, gầy gò ốm yếu và giới thiệu là nhà thơ Hữu Loan đến thăm đại hội. Tôi đến chào đón anh bằng cách ôm anh. Sau đó tôi có làm một bài phỏng vấn anh về Nhân Văn Giai Phẩm.”

Hào khí “Đèo Cả”

Bài thơ “Đèo Cả” được Hữu Loan sáng tác vào năm 1946 cho thấy tài năng của ông đã phát lộ rất sớm. Ông nhìn bạn chiến đấu đồng hành cùng với mình bằng một đôi mắt nhân bản nhưng lời thơ hùng tráng như tiếng kèn thúc quân xóa nhòa đi tất cả nỗi thường tình nhi nữ.

Hữu Loan không ca tụng chiến tranh nhưng thơ ông có sức công phá mãnh liệt của lòng yêu nước. Hình ảnh những chàng trai hiên ngang “râu ngược chào nhau bên vách núi” ý thơ cổ điển lồng trong khung cảnh hiện thực đã tăng thêm hào khí cho bài thơ lên nhiều lần.

Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngất!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương!
Bên quán hồng quân
Người
Ngựa
Mỏi
Nhìn dốc
Ngồi than
Thương ai
lên đường
Chầy ngày
Lạc giữa núi
Sau chân
Lối vàng xanh tuôn
Dưới cây
Bên suối độc
Cheo leo
Chòi canh
Như biên cương.
Tức
Râu trùm vai rộng
Không nhận ra người làng
Rau khe
Cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Ngày thêm
Vượn hú
Đêm canh
Gặp hùm
Lang thang!
Gian nguy
Lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu nghiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng
Ông cha.
– Cầu xây chiến lũy ngất
Đây hình hài thiên hoa!
– Xâm lăng!
– Xâm lăng!
Súng
Thèm
Gươm
Khát
– Ai ngâm
Lung lay
Đêm quê nhà!
Nhớ về thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau
Bữa heo rừng
Công thui
Chấm muối
Ngủ với nhau
Sạp rừng
Nửa tối
An Bình.
Biệt nhau
Rừng hoang
Canh gà
Râu ngược
Chào nhau
Bên vách núi
Giặc từ Vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả
Vẫn
Giữ
Vững
Chân đèo Nam
Máu giặc
Mấy lần
Nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu…
Suối mang bóng người
Soi
Những
Về
Đâu ?!

“Trời có mắt”

Sau năm 75, mặc dù trôi dạt nhiều nơi, người Việt vẫn không quên Hữu Loan. Không những vì bài thơ “Màu tím hoa sim” bất hủ mà còn vì nhân cách sốngđáng ca tụng của ông nữa. Khi quyết định trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp do tạp chí Khởi Hành khởi xướng cho nhà thơ Hữu Loan, chủ biên tạp chí này là nhà văn Viên Linh kể lại:

“Năm sáu tháng trước và sau khi trao giải thưởng cho nhà thơ Hữu Loan thì chúng tôi có liên lạc trước hết là những thân nhân sau đó là những bạn bè từ Paris về liên lạc với anh Hữu Loan, sau đó là gọi điện thoại. Một trong những điều tôi nhớ nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí Khởi Hành quyết định trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!”

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên kể lại những lần thăm viếng nhà thơ Hữu Loan mới đây và ông cũng không dấu được ngậm ngùi khi nghe tin nhà thơ qua đời.

“Khoảng tháng 10 năm 2008 cho đến cuối năm vừa rồi tôi có nhiều dịp đến thăm nhà thơ. Như một sự ngưỡng mộ, như một sự tìm kiếm. Ấn tượng ban đầu khi gặp nhà thơ thì ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người ông gầy sắt seo lại nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời. Ông sẵn lòng đọc thơ cho những ai đến thăm có yêu cầu…”

Hữu Loan sinh ra và lớn lên tại miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ ông lại là dân chúng miền Nam. Trước năm 1975, bài thơ“Màu tím hoa sim” hình như không ai ở miền Nam mà không biết tới. Tính chất bi kịch gây xúc động của câu chuyện có thực, lồng trong ngôn ngữ trữ tình lãng mạn của thi ca đã làm biết bao thanh niên miền Nam say đắm.

Giờ đây người dân miền Bắc đã biết đến Hữu Loan qua những nhạc phẩm phổ từ bài thơ của các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy hay Anh Bằng. Miền Bắc biết và yêu ông hơn cả người miền Nam khi xưa vì vừa cảm động bởi bài thơ bất hủvừa chia sẻ sâu sắc nỗi thống khổ của một người bị guồng máy trù dập như thếnào. Rất nhiều người trong họ đã nếm qua những gì mà nhà thơ từng trải nghiệm.

Tuy vẫn quay trong sự im lặng nhưng hình ảnh bất khuất của nhà thơ hình như cũng khiến cho guồng máy chững lại trong giờ phút ông ra đi. Ra đi nhưng để lại trong lòng những người yêu mến ông biết bao thổn thức.

Quý vị vừa theo dõi các văn nghệ sĩ nói về sự kính trọng của mình đối với nhà thơ Hữu Loan. Kỳ tới Mặc Lâm sẽ gửi đến quý thính giả lịch sửc của hai bài thơ: “Màu tím hoa sim” và “Hoa Lúa”, hai tuyệt tác mà nhà thơ Hữu Loan sáng tác cho hai người bạn tri kỷ của mình đã và sẽ mãi mãi nằm trong lòng người yêu thơ nước Việt.

Bình luận về bài viết này